Nguồn tư liệu Thần_thoại_Hy_Lạp

Thần thoại Hy Lạp được biết đến ngày nay chủ yếu từ văn học Hy Lạp và những thể hiện trên các vật tạo tác có từ thời kỳ Kỷ hà (Geometric period) cuối Hy Lạp tăm tối trong nghệ thuật Hy Lạp, có từ sớm nhất là khoảng 800-900 năm trước CN[4]. Trên thực tế, các nguồn tư liệu văn học và khảo cổ học, khi thì bổ sung và khi lại trái ngược nhau, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự tồn tại của những tập dữ liệu là một minh chứng chắc chắn rằng nhiều yếu tố trong thần thoại Hy Lạp có nguồn gốc thực tế và lịch sử rõ ràng.

Các tư liệu văn học

Các truyện kể thần thoại đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các thể loại của văn học cổ Hy Lạp. Tuy nhiên, chỉ có duy nhất cuốn sổ tay ghi chép tổng quát về thần thoại còn lại từ thời Hy Lạp cổ đại, đó là cuốn Bibliothēkē ("thư viện") của Pseudo-Appollodorus. Công trình này nỗ lực giải hòa những câu truyện mâu thuẫn nhau của các nhà thơ đương thời và cung cấp một tóm tắt lớn về thần thoại Hy Lạp truyền thống và các truyền thuyết anh hùng[5]. Apollodorus xứ Athens sống trong khoảng 180–120 tr.CN và viết nhiều bài về chủ đề này. Các bài viết của ông được cho là làm nên nền tảng của tuyển tập; tuy nhiên cuốn Thư viện này đề cập những sự kiện xảy ra lâu sau khi ông qua đời, do đó được gọi là tác phẩm Pseudo-Apollodorus.

Prometheus (tranh năm 1868 bởi Gustave Moreau). Huyền thoại về Prometheus được xác nhận bởi Hēsíodos và về sau làm nên cốt lõi cho bộ ba kịch được cho là của Aeschylus, bao gồm Prometheus bị xiềng, Prometheus tháo xiềng, và Prometheus Pyrphoros.

Trong số các nguồn tư liệu văn học đầu tiên có hai bản anh hùng ca của Hómēros, Iliad (I-li-át) và Odýsseia (Ô-đi-xê). Các nhà thơ khác tạo nên tuyển tập gọi là Tập anh hùng ca (Epikos Kyklos), nhưng các trường ca ra đời sau và ngắn hơn này ngày nay đã thất lạc toàn bộ. Ngoài ra còn có "Những bài ca Hómēros" ("Homeric Hymns"), tuy tên như vậy nhưng không có mối liên hệ trực tiếp nào với Hómēros. Chúng là những bài hát hợp xướng trong giai đoạn đầu của một thời kì gọi là "Kỉ nguyên thơ trữ tình" ("lyric poetry")[6]. Hēsíodos, một người có thể cùng thời với Hómēros, cung cấp trong Theogonía (Nguồn gốc các vị thần) bản ghi chép đầy đủ nhất về các huyền thoại Hy Lạp đầu tiên, liên quan tới sự sáng tạo thế giới; nguồn gốc các vị thần, các Titan, và những người khổng lồ Gigantes; cũng như đánh giá phả hệ, truyện dân gian, và các huyền thoại khởi thủy. Hēsíodos cũng là tác giả của Ἔργα καὶ Ἡμέραι, Erga kai Hēmerai (Công việc và Ngày), một trường ca có tính cách giáo dục về đời sống trồng trọt, và cũng bao gồm các thần thoại về Prometheus, Pandora, và Các Thời Đại Người. Nhà thơ đưa ra những lời khuyên về cách tốt nhất để thành công trong một thế giới ngặt nghèo, thậm chí còn bị làm cho ngặt nghèo hơn nữa bởi các vị thần[2].

Các bài thơ trữ tình thường mượn chất liệu từ thần thoại, nhưng cách xử lý của nó ít mang tính tường thuật mà mang tính tượng trưng nhiều hơn. Các nhà thơ của trào lưu này bao gồm Pindar, Bacchylides, Simonides, các nhà thơ điền viên như TheocritusBion, liên quan tới các đoạn thần thoại riêng lẻ[7]. Thêm nữa, huyền thoại đã là trung tâm của sân khấu Athena cổ điển. Các tác gia bi kịch Aeschylus, Sophocles, và Euripides lấy hầu hết các cốt truyện của họ từ thần thoại của thời đại anh hùng và chiến tranh Troia. Nhiều câu chuyện bi kịch vĩ đại (ví dụ Agamemnon và lũ trẻ, Oedipus, Jason, Medea, vân vân) mang lấy hình thức kinh điển của chúng trong những vở bi kịch này. Nhà hài kịch Aristophanes cũng sử dụng thần thoại, trong vở Những con chim và Những con ếch[8].

Các nhà sử học HerodotosDiodorus Siculus, cùng các nhà địa lý PausaniasStrabo, những người đã du hành khắp trong thế giới Hy Lạp và ghi chép các câu chuyện họ nghe được, cung cấp rất nhiều huyền thoại và truyền thuyết địa phương, cũng thường ghi lại những biến thể ít được biết đến[7]. Đặc biệt Herodotos đã tìm kiếm những truyền thống khác nhau mà ông giới thiệu và đã tìm thấy những nguồn gốc thần thoại hay lịch sử trong sự đối chiếu giữa Hy Lạp và phương Đông[9] và trên cơ sở đó, Herodotos cố gắng hòa giải các nguồn gốc và hỗn hợp các quan niệm văn hóa khác nhau.

Thơ ca của các thời kỳ Hy Lạp hóaLa Mã chủ yếu được sáng tác như những thực hành văn chương hơn là tín ngưỡng. Tuy nhiên, nó chứa đựng những chi tiết quan trọng bị thất lạc. Thể loại này bao gồm các công trình của:

Các cuốn Fabulae và Astronomica của các nhà văn La Mã được gọi là Ngụy Hyginus là hai bản tóm tắt phi thi ca quan trọng về thần thoại. Cuốn Tưởng tượng của Philostratus GiàPhilostratus Trẻ và Mô tả của Callistratus, là hai nguồn hữu dụng khác về chủ đề này.

Cuối cùng, Arnobius và một số nhà văn Hy Lạp thuộc Byzantine cung cấp những chi tiết quan trọng về thần thoại do chúng liên hệ với những tác phẩm Hy Lạp sớm hơn mà nay đã mất. Những tác phẩm bảo quản thần thoại này bao gồm một cuốn từ điển của Hesychius, Suda, và các luận văn của Ioannes TzetzesEustathius. Tuy nhiên chúng mang nặng quan điểm giáo huấn Thiên Chúa giáo về thần thoại Hy Lạp, được tóm tắt trong câu nói, en panti muthōi kai to Daidalou musos ("Trong mọi huyền thoại luôn có một sự ô uế của Daidalos")[10].

Các tư liệu khảo cổ

Một bản thảo ở thế kỷ V vẽ minh họa nhà thơ La Mã Virgilius, người đã bảo tồn các chi tiết của thần thoại Hy Lạp trong nhiều tác phẩm của ông.

Sự khám phá ra văn minh Mycenae bởi nhà khảo cổ học nghiệp dư người Đức, Heinrich Schliemann, trong thế kỷ XIX, và khám phá nền văn minh MinosCrete bởi nhà khảo cổ học người Anh, Ngài Arthur Evans, trong thế kỷ XX, giúp cho việc giải thích nhiều câu hỏi tồn tại về các anh hùng ca của Hómēros và cung cấp những bằng chứng khảo cổ cho nhiều chi tiết thần thoại về các vị thần và các anh hùng. Không may là, bằng chứng về huyền thoại và nghi thức ở các di chỉ Mycenae và Minos hoàn toàn là những công trình, bởi vì bản thảo Linear B (một dạng chữ Hy Lạp cổ tìm thấy ở cả Crete và Hy Lạp) được sử dụng chủ yếu để ghi chép các tóm tắt, mặc dù tên các vị thần và anh hùng đã được khám phá một cách không chắc chắn.[2]

Các họa tiết kỷ hà trên đồ gốm của thế kỷ VIII trước CN mô tả các cảnh trong cuộc chiến Troia, cũng như các cuộc phiêu lưu của Herakles.[2] Các miêu tả bằng hình này về thần thoại quan trọng vì hai lý do. Thứ nhất, nhiều thần thoại Hy Lạp được ghi nhận trên các lọ, vại sớm hơn các nguồn văn học: về mười hai kỳ công của Herakles, chẳng hạn, chỉ có cuộc phiêu lưu Cerberus xuất hiện trong các văn bản đồng đại[11]. Hơn nữa, trong các tư liệu hình ảnh đôi khi xuất hiện những mô tả thần thoại hay các trích đoạn thần thoại không được nhắc đến bởi bất kì nguồn tư liệu văn học hiện còn nào. Trong một số trường hợp, mô tả sớm nhất được biết về một huyền thoại trong nghệ thuật kỷ hà vượt trước mô tả sớm nhất trong văn học cổ đại hàng vài thế kỉ[4]. Trong các thời Cổ đại (khoảng từ 750 tới 500 tr.CN), Cổ điển (khoảng 480–323 tr.CN), và Hy Lạp hóa (323–146 tr.CN), các trích đoạn thần thoại như của Hómēros mới xuất hiện, bổ sung vào các bằng chứng văn học còn lại đến nay[2].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thần_thoại_Hy_Lạp http://www.britannica.com/EBchecked/topic/244670 http://books.google.com/?id=EpbZLRPGgBsC&printsec=... http://books.google.com/?id=OFO_NQJh8L0C&printsec=... http://books.google.com/?id=TQyRX6WmMUMC&printsec=... http://books.google.com/books?id=OFO_NQJh8L0C&pg=P... http://www.greekmythology.com/ http://www.mythweb.com/ http://www.sacred-texts.com/cla/argo/argo00.htm http://www.sacred-texts.com/cla/gpr/gpr07.htm http://www.sacred-texts.com/cla/gpr/gpr07.htm#fr_5...